Bài thơ “Phản chiêu hồn” của Nguyễn Du viết về một nhà thơ tài ba, một nhà chính trị lỗi lạc của Trung Quốc, đó chính là Khuất Nguyên. Giá trị của tác phẩm này không chỉ nằm ở ngôn ngữ rành mạch, xúc tích mà còn bởi nó mang đậm giá trị nhân đạo, cả bức tranh hiện thực cũng được tác giả gợi ra rõ nét, chân thực.
Khuất Nguyên là một nhà thơ lớn, một nhà chính trị tài ba sống ở thời Chiến quốc. Do tài năng xuất chúng mà ông được Sở Hoài Vương trọng dụng. Tuy nhiên, do những cải cách tiến bộ của ông đụng chạm đến quyền lợi của bọn gian thần, nên Khuất Nguyên đã bị chúng hãm hại, đi lưu đầy xuống Phương Nam. Tuy phải chịu khổ sai song không lúc nào ông không hướng về về đất nước, quê hương. Cũng chính tình yêu sâu đậm dành cho quê hương ấy mà khi nước Sở đứng trước nguy cơ suy vong, Khuất Nguyên đã nhảy xuống sông tự vẫn.
Nguyễn Du làm bài thơ “Phản chiêu hồn” trong một chuyến đi sứ Trung Quốc vào đầu thập niên 10 của thế kỷ 19, thể hiện sự đồng cảm với hồn của Khuất Nguyên. Từ đó, ông đưa ra lời khuyên chân thành, không nên chiêu hồn Khuất Nguyên. Sự mục nát của xã hội hiện thời không có chỗ cho hồn tựa nương cho một tâm hồn khiết phích, trong sạch như Khuất Nguyên.
Sự lưu truyền của bài thơ này suốt mấy trăm năm qua đã khẳng định giá trị tư tưởng và nghệ thuật của nó. Bài thơ giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cao cả.
Hồn ơi! Hồn ơi! Sao không về?
Đông, Tây, Nam, Bắc không có nơi nào nương tựa đâu!
Lên trời, xuống đất đều không được
Về đất Yên đất Dĩnh mà làm gì?
Thành quách vẫn như cũ, nhưng nhân dân đã khác rồi
Bụi bay mù mịt bẩn cả quần áo.
Dù là “Đông, Tây, Nam, Bắc”, hay “lên trời, xuống đất” thì cũng không phải nơi thích hợp để cho hồn Khuất Nguyên nương tựa. Mặc dù, Khuất Nguyên vẫn một lòng với đất nước nhưng đâu có chỗ dung thân. “Thành quách vẫn như cũ” nhưng người dân “đã khác rồi”, đói khổ, lầm than. Xã hội bấy giờ ngột ngạt, tù túng biết bai, không thích hợp để cho linh hồn trong sạch như Khuất Nguyên nương tựa.
Ngoài ra, Nguyễn Du còn tả thực cảnh tượng đất nước Khuất Nguyên từng sống:
Họ đi ra ngựa ngựa xe xe, họ ở nhà vênh vênh váo váo
Đứng ngồi bàn tán tựa như ông Cao, ông Quỳ.
Hồn không thấy mấy trăm châu ở Hồ Nam đó sao?
Chỉ có những người gầy gò, không ai béo tốt.
Bọn quan lại vênh váo, đứng bàn chuyện giả nhân giả nghĩa. Những loại người này có mặt ở khắp nơi khắp chốn. Quan thì béo tốt, chỉ có người dân Hồ Nam là gầy gò, ốm yếu. Bởi vì, họ bị áp bức, bóc lột. Dân chúng sống trong cảnh bị thống trị đã mất niềm tin và ngột ngạt. Chỉ vài câu thơ, Nguyễn Du đã vẽ bức tranh xã hội Trung Quốc đen tối, thối nát.
Đời sau ai cũng là Thượng Quan
Mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch La
Ở đây, nhà thơ đã nhắc đến “Thượng Quan” và “Mịch La” để làm tăng sức thuyết phục của ý thơ. Thượng Quan là một viên quan sống cùng thời với Khuất Nguyên, quen thói xu nịnh. Còn sông Mịch La là nơi đã chôn vùi bao nhiêu người con trung nghĩa. Xã hội rối ren, tham quan thì được trọng dụng. Những người yêu nước, thương dân bị chôn vùi lý tưởng, bị hãm hại và có kết cục bi thảm như Khuất Nguyên.
Cá rồng không ăn, hùm sói cũng ăn
Hồn ai! Hồn ai! Hồn làm thế nào?
Nguyễn Du đã khái quát nâng lên thành những số phận, cảnh ngộ phổ biến, bao quát cả không gian và thời gian. Bi kịch là phổ biến, nhưng còn tình trạng bế tắc về lý tưởng như Khuất Nguyên cũng là thường tình. Xã hội thối nát đến mức, cuộc sống của nhân dân đâu đâu cũng là mối đe dọa, là những hiểm họa khôn lường “Cá rồng không ăn, sói cũng ăn”. Như vậy, Nguyễn Du đã dùng sự đồng cảm của mình để đưa ra những lời khuyên đầy chân thành cho hồn của Khuất Nguyên. Đồng thời, qua đó bức tranh xã hội đen tối, thực trạng thối nát của xã hội Trung Quốc đương thời cũng được nhà thơ khắc họa đầy rõ nét, chân thực.
Bài thơ “Phản chiêu hồn” như một nỗi niềm tâm trạng sâu kín của Nguyễn Du. Ông không chỉ xót thương cho Khuất Nguyên mà xót thương cho chính mình và những vị quan thanh liêm nhưng sống trong xã hội thối nát, bế tắc đến cùng đường.